Đến với tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân, người đọc có thể cảm nhận được hình ảnh con sông Đà hiện lên trong tác phẩm khi thì hung bạo hiểm ác nhưng có những lúc lại rất đỗi hiền hòa thơ mộng. Sau đây mời các bạn và các em cùng svnckh phân tích cảnh sông đà hung bạo để từ đó chúng ta có thể cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên tổ quốc cũng như nét đẹp lao động của con người Việt Nam, Mời các bạn cùng đón đọc.
Thông tin bài viết mới khác :
Cách lập dàn ý Phân tích cảnh sông đà hung bạo
Mở bài
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm
– Dẫn dắt vấn đề
Thân bài
– Hướng chảy của sông Đà cho thấy đó là một dòng sông đầy cá tính “Chúng thủy giai đông …”.
– Bờ sông dựng vách thành: lòng sông hẹp, “bờ sông dựng vách thành”, “đúng ngọ mới có mặt trời”, chỗ “vách đá … như một cái yết hầu”
– Ở mặt ghềnh Hát Loóng: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” một cách hỗn độn, lúc nào cũng như “đòi nợ suýt” những người lái đò.
– Ở Tà Mường Vát: “có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông”, chúng “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc nước”, thuyền qua đoạn hút nước “y như ô tô …mượn cạp ngoài bờ vực”,
– Trận địa thác đá được miêu tả từ xa đến gần:
Xa: âm thanh thác đá “con xa lắm” mà đã nghe tiếng thác “réo gần mãi lại, réo to mãi lên”, âm thanh ấy hiện lên với nhiều trạng thái khi “oán trách”, lúc “van xin”, khi “khiêu khích”, “chế nhạo”; cách so sánh độc đáo: “rống lên như một ngàn con trâu … cháy bùng bùng” (lấy lửa tả nước).
Gần: Đá cũng đầy mưu mẹo: “nhăn nhúm”, “méo mó”, “”hất hàm”, “oai phong”, “bệ vệ”, có những hành động như “mai phục”, “chặn ngang”, “canh”, “đánh tan”, “tiêu diệt”, sóng: “đánh khuýp quật vu hồi”, “đánh giáp lá cà”, “đòn tỉa”
Sự biến hóa linh hoạt của trùng vi thạch trận: có 3 vòng, vòng 1 có 5 cửa sinh, một cửa tử (tả ngạn), vòng 2 có nhiều cửa tử, 1 cửa sinh (hữu ngạn), vòng 3 có ít cửa và 1 cửa sinh (giữa), gợi hình ảnh con sông Đà có tâm địa nham hiểm, mẹo lược, biến hóa khôn lường.
– Nhận xét: sông Đà mang diện mạo và tâm địa của một con thủy quái, “dòng thác hùm beo”, thứ kẻ thù số một của con người
Kết bài
– Khái quát lại vấn đề
Mẫu Phân tích cảnh sông đà hung bạo
Mẫu 1 :
Ôi những dòng sông bắt nước từ đây
Mà khi về đất nước mình thì bắt lên câu hát
Những dòng sông yêu thương của quê hương, đất nước Việt Nam tự bao giờ đã trở thành nguồn cảm hứng dạt dào cho các văn nghệ sĩ. Dường như mỗi nhà văn, nhà thơ lại có một dòng sông để thương, để nhớ của riêng mình. Nguyễn Hoàng Cầm tha thiết với sông Đuống thân thương; Hoàng Phủ Ngọc Tường đắm đuối sông Hương thơ mộng, kiều diễm thì Nguyễn Tuân say đắm vẻ đẹp hung bạo, trữ tình. Với niềm say mê đắm đuối cùng vốn trí thức tài hoa, Nguyễn Tuân đã tạo nên trang văn độc đáo “Người lái đò sông Đà”.
Là cây đại thụ của rừng đầu nguồn văn học Việt Nam, Nguyễn Tuân luôn say mê những cái phi thường, tuyệt đỉnh, tuyệt đối, thích cảm xúc mạnh. Ưa khám phá sự vật, hiện tượng đến tận chân tơ kẽ tóc, trang văn của Nguyễn Tuân phô diễn kiến thức hết sức uyên bác: lịch sử, địa lí, âm nhạc, văn chương, thể thao, quân sự.
Ngay từ lời đề từ của tác phẩm, Nguyễn Tuân đã đóng đinh vào lòng người đọc ấn tượng về sự ngang ngạnh bướng bỉnh, lạ thường:
Mọi dòng sông đều chảy về hướng Đông
Duy chỉ có sông Đà là ngược dòng chảy theo hướng Bắc
Ngay sau lời đề từ, Nguyễn Tuân đã tỉ mỉ liệt kê tên của 73 con thác độc dữ của sông Đà. Nhưng hùng vĩ của sông Đà không chỉ có thác mà còn ở cảnh đá bờ sông. Cái sừng sững của vách đá, cái lạnh lẽo tối om và thắt hẹp lại của quãng sông hiện lên rõ mồn một trước mắt người đọc bởi hàng loạt hình ảnh, sự kiện, phép so sánh mới lạ của Nguyễn Tuân. Đá hay bờ sông dựng đứng, cao ngút trời, mặt sông chỉ lúc đứng ngọn mới có mặt trời. Quãng sông rất hẹp đến mức con hổ, con nai cũng có thể vọt qua được. Đi giữa vách đá cao vòi vọi, đen đúa giữa mùa hè mà cũng cảm thấy lạnh người và tối om. Như đứng ở hè một cái ngõ ngóng vọng lên một khung cửa sổ trên cái tầng thứ mấy của tòa nhà vừa tắt phụt đèn điện.
Đâu chỉ hung bạo hùng vĩ, sông Đà còn vô cùng hung bạo, dữ dằn. Ở quãng mặt ghềnh Hát Loóng dài hàng ngàn cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng muốn lấy mạng những người lái đò qua đây. Với những điệp từ, câu văn như dậy sóng, dậy gió. Diện mạo của sông Đà thật gớm ghiếc hung dữ chằng khác nào tên lưu manh, côn đò, giang hồ chuyên nghề đâm, thuê, chém, mướn.
Những cái hút nước sông Đà còn đáng sợ hơn và thực sự trở nên hiểm ác trong trang văn của Nguyễn Tuân. Với tham vọng đem đến cho người đọc cảm giác chân thực, sống động nhất về sự hung dữ của cá thác nước, Nguyễn Tuân đã tung ra một đội quân hùng hậu: văn chương, điện ảnh, thể thao,… Chỉ riêng trong đoạn văn đã có nhiều so sánh, liên tưởng độc đáo. Người đọc dễ hình dung về cái hút nước khủng khiếp trên sông Đà. Nước xoáy tít đáy, sâu hun hút như cái giếng bê tông thả xuống làm móng cầu. Từ đáy cái hút nước lên đến mặt chênh nhau vài sải tay. Nước thở và kêu như cái cống bị sặc, có lúc ặc ặc nghe như vùa rót dầu sôi vào. Thuyền bè vô ý qua đây, không vững tay chèo liền bị lôi tuột xuống, trồng cây chuối ngược, đi ngầm dưới lòng sông, mươi phút sau mới tan tác ở quãng sông dưới. Chưa dừng lại ở đó, Nguyễn Tuân còn muốn người đọc nảy ra ý tưởng điện ảnh táo bạo. Nhà văn nghĩ đến chuyện một anh quay phim ngồi vào thuyền rồi cho cả mình, cả máy quay để thu ảnh, truyền đến cho người đọc cả khối nước sắp ụp vào mình. Thiết nghĩ không cần đến sự phiêu lưu mạo hiểm của người quay phim ấy nữa bởi chỉ cần đọc văn Nguyễn Tuân, ta đã cảm thấy như được xem một bộ phim 3D sống động
Nói đến hung bạo của sông Đà tât phải nói đến cái dứ dằn của con thác. Còn nhớ trong Tây Tiến, Quang Dũng từng miêu tả:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Vẻ hung dữ của con thác trong trang thơ của Quang Dũng chưa thấm gì với trang văn của Nguyễn Tuân. Ông đã chỉ điểm ra vài giọng điệu của con thác nghe đã thấy rợn người. “Tiếng thác nước nghe như oán trách, rồi nghe như là van xin, rồi lại như khiêu khích, khi giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi, nó bất thần rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng giữa rừng vầu, rừng tre nứa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, những con thác sông Đà có khác nào con quái vật hung hãn trong cơn bứt phá, tức tối và tuyệt vọng. Cái lạ là Nguyễn Tuân đã dùng tử để tả nước, lấy rừng tả thác. Đó quả là cách chơi ngông trong văn chương của Nguyễn Tuân.
Hết uy hiếp người lái đò bằng thác dữ, sông Đà lại dàn bày thạch trận với dã tâm tiêu diệt mọi con thuyền. Sông Đà tung ra một lực lượng hết sức hùng hậu, thiện chiến, với đủ tướng dữ, quân tợn, đứa nào trông cũng ngỗ ngược, dữ dằn. Bọn giặc đá còn mưu mô, bí mật mai phục để bẫy con thuyền. Thoạt nhìn, thấy mặt sông trắng xóa cả một chân trời đá. Những hòn, những tảng tưởng như nó đứng, nó ngồi, nằm tùy theo sở thích. Nhưng hoàn toàn không phải vậy, chúng âm mưu bày binh bố trận hòng hại chết con thuyền đối phương. Chúng giàn ba vòng vây cực hiểm ác. Mỗi vòng vây, chúng mở rất nhiều cửa tử, chỉ duy nhất một cửa sinh. Cửa sinh lại bố trí lắt léo, lúc bên phải, lúc bên trái, khi ở giữa. Vòng đầu, nó làm ra vẻ sơ hở để dụ con thuyền đối phương vào sâu rồi sau đó tung ra cú đánh khuýp quật vu hồi. Khi con thuyền xa vào trận đại, đá thác và sông nước nhất tề sông lên, hợp đồng tác chiến, đánh hội đồng. Chúng đánh dồn dập, tới tấp với những miếng đòn hiểm độc. Chúng âm mưu đánh tan tất cả thuyền trưởng và thủy thủ ngay ở chân thác. Qua ngòi bút tài hoa, trí tưởng tượng phong phú của Nguyễn Tuân, sông Đà hiện nguyên hình là con quái vật khổng lồ nham hiểm, xảo quyệt, đủ mưu ma, chước quỷ, đầy dã tâm thâm độc.. Cứ thế, sự dữ dằn, hung bạo, hiểm ác của sông Đà – kẻ thù số một của con người Tây Bắc cứ nhân lên trùng trùng trong liên tưởng, tưởng tượng của người đọc. Đọc trang văn mà ta như lạc vào trận địa đủ thiên la địa võng
Khám phá vẻ đẹp hung bạo của sông Đà, Nguyễn Tuân không dừng lại ở việc tạc khắc vào tâm trí người đọc tính cách bạo dạn, có một không hai của con sông Tây Bắc mà còn bộc lộ khát vọng lớn của mình – khát vọng của một công dân đầy tâm huyết với công cuộc xây dựng cuộc sống mới. Khi khám phá sự dữ dằn của sông Đà, Nguyễn Tuân đã liên tưởng tới cái tuyếc-bin thủy điện to lớn của sông Đà. Sông Đà trở thành dòng sông của ánh sáng, đã dâng tặng cho đất nước nguồn năng lượng dồi dào, ánh sáng của sông Đà đã đi khắp đất nước làm giàu cho bao hồn quê.
Cái đẹp vốn tiềm tàng trong đời sống, vũ trụ nhưng phát hiện được cái đẹp và truyền đến người đọc tình yêu và niềm say mê với cái đẹp lại là chuyện không dễ dàng. Ghi nhớ điều này, chúng ta thêm trân trọng Nguyễn Tuân, người nghệ sĩ bằng niềm say mê thiên nhiên và bằng tay phù thủy ngôn ngữ, đã giúp người đọc chiêm ngưỡng đắm say trước vẻ đẹp của sông Đà của thiên nhiên Tây Bắc hung bạo mà hùng vĩ. Chính trang văn của Nguyễn Tuân đã bồi đắp thêm tình yêu quê hương, đất nước cho chúng ta.
Mẫu 2 :
Nguyễn Tuân nổi tiếng là nhà văn tài hoa với nét văn độc đáo. Ông thích những gì là dữ dằn, mãnh liệt của thiên nhiên, con người để đem vào trong thơ ca của mình. Thế nên tác phẩm của ông ta cảm nhận được sự hùng vĩ hiếm có của thiên nhiên. “Người lái đò sông Đà” là một trong những tác phẩm làm nổi bật nên tên tuổi của Nguyễn Tuân. Đây là một đoạn trích hay nằm trong Tùy bút sông Đà được xuất bản năm 1960. Người lái đò sông Đà chính là thành quả của chuyến đi thực tế của tác giả đến vùng đất Tây Bắc. Trong đoạn trích, tác giả đã tìm kiếm “chất vàng mười” của thiên nhiên và của những người dân lao động nơi đây.
Nguyễn Tuân và sông Đà tình cờ gặp nhau trong chuyến công tác lên Tây Bắc. Con sông hiện lên trước mắt ông như là một sự hùng vĩ của thiên nhiên. Vậy nên, mới gặp sông Đà thôi nhưng cứ như người bạn tri kỷ bấy lâu nay. Sông Đà trong mắt Nguyễn Tuân là một con sông nguyên sơ và tính cách đầy mạnh mẽ. Mở đầu đoạn trích, tác giả nhắc tới sông Đà qua hai câu thơ “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”.
Ở “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân đã dành hết mực bút để miêu tả sông Đà đoạn thượng nguồn. Với cá nhân tác giả, đó là nơi sông Đà toát lên vẻ hung bạo nhất, nghiệt ngã nhưng cũng đầy những thử thách. Sự dữ dội của sông Đà còn được tác giả thể hiện bằng cách dùng những từ ngữ có tiết tấu nhanh, mạnh. Dòng sông ấy không chỉ có thác đá, mà còn dữ dội trên chính những vách đá thẳng đứng, hiểm trở “đá bờ sông dựng vách thành”.
Để làm nổi bật thêm sự hùng vĩ, to lớn của dòng sông, tác giả còn thể hiện rõ nét lòng sông khúc ấy. Lòng sông như bị bóp nghẹt lại như một cái yết hầu “mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một yết hầu”. Không chỉ dừng lại như thế thế, “đứng ở phía bờ bên này nhẹ tay đã có thể ném hòn đá qua bên kia vách.Có quãng con hổ, con nai còn có thể nhún một cái đã từ bờ bên này sang đến bờ bên kia”
Miêu tả bằng hình ảnh thực tế của sông Đà thôi là chưa đủ, tác giả còn chi tiết miêu tả cảm nhận của những người ngồi trên khoang đò quãng sông ấy “đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên các tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Dường như những vách đá dựng đứng đã khiến một góc nhìn thu hẹp lòng sông khi nhìn từ trên cao. Sự so sánh của Nguyễn Tuân là chuẩn xác đến từng chi tiết. Dường như ông đã xem xét kỹ lưỡng đến tận cùng dòng sông để cho người đọc thấy được vẻ kỳ bí của nó.
Sự hoang sơ, kỳ bí, hung bạo của sông Đà còn đặc biệt được tác giả miêu tả thông qua tiếng gió thổi. Tiếng gió trên sông Đà như thể là tiếng gầm rú của thiên nhiên bí ẩn, nó mang đến cho con người cảm giác rùng mình, gai người, ghê rợn. Nguyễn Tuân đã tinh tế, thể hiện được sự tài hoa khi miêu tả “dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió. Cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm”. Có lẽ chỉ Nguyễn Tuân mới có đủ khả năng và sự tinh tế để miêu tả dòng sông hiện lên trước mắt người đọc một cách vô cùng đặc sắc như vậy. Câu văn diễn đạt theo móc xích với cấu trúc trùng điệp càng gợi lên hình ảnh con sông Đà đang vô cùng hung dữ, tàn bạo, độc ác, chỉ chực “lật ngửa bụng thuyền ra”.
Những cái hút nước trên sông Đà cũng được hiện lên vô cùng đặc biệt. “Những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”. Tác giả đã phác họa lại những cái hút nước đó vô cùng man rợ.
Dường như ở đây không phải là một dòng sông mà là một con thủy quái khổng lồ đang muốn uy hiếp những người nào lại gần nó. Thế nên “không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy”. Dường như hút nước ở sông Đà trở thành nỗi ám ảnh với người lái đò nơi đây, họ chỉ muốn tránh mặt chứ không muốn đụng chạm tới nó. Bởi nếu không nhanh tay chèo láo để lướt qua quãng sông thì sẽ bị cái hút nó hút xuống, thuyền lật mà trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi không để lại một chút dấu vết, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới.
Âm thanh của thác nước càng làm con sông Đà hung bạo thêm. Nó giống như tiếng gầm rú của con quái vật nơi đầu nguồn, nó ám ảnh vang vọng vào cả những tâm trí những con người lái đò đi ngang qua nơi đây. Thế nên còn cả một khoảng cách xa nữa mới đến thác nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên. Liệu còn có nhà văn nào đủ khả năng và tinh tế để có thể miêu tả chân thực nét rùng rợn, ghê sợ của tiếng thác nước như Nguyễn Tuân?
Nghe tiếng gầm rú của dòng sông ta như liên tưởng tới tiếng trách than, ai oán của con người xấu số. Tiếng nước thác nghe như van xin, oán trách, rồi lại khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Dường như Nguyễn Tuân đã nhân cách hóa dòng sông từ một thứ vô tri vô giác giờ lại trở thành như một con người vậy.
Mới vài phút trước còn nhẹ nhàng, dịu dàng nhưng chỉ đến phút sau tiếng thác đã được phóng to hết cỡ, như một sự phấn khích điên cuồng đến đáng sợ” nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu và rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn da trâu cháy bùng bùng”. Chỉ với một sự miêu tả ngắn gọn không rõ ràng nhưng những gì là vẻ hung bạo, dữ tợn của con sông đã được lột tả hết. Nhưng qua đó ta mới càng thán phục sự tài hoa của Nguyễn Tuân qua từng câu chữ. Sự liên tưởng của ông có lẽ đã đạt tới thượng thừa chẳng ai sánh kịp, có ai lại đi lấy lửa để tả nước, lấy rừng tả sông. Chắc hẳn người đó phải có bộ óc dị tưởng mà táo bạo lắm mới dám làm như vậy.
Sự hung bạo của sông Đà còn có sự đóng góp của những bãi đá. Dường như khi miêu tả những bãi đá vô tri, vô giác trên đoạn thác sông Đà, Nguyễn Tuân đã tài tình, tinh tế nhân hóa khiến người đọc cảm nhận như đang miêu tả con người với tràn đầy sức sống mãnh liệt chứ không phải là vật vô tri, vô giác. Từng tảng đá được Nguyễn Tuân phác họa lên như một thân hình hài toàn vẹn có tính cách. Đá ở đây từ bao ngàn năm nay vẫn mai phục hết trong lòng sông, dường như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quanh nơi này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy đề vồ lấy thuyền, lật ngược thuyền. Những cục đá bên dòng sông Đà như một đội quân hùng mạnh luôn chừng chực âm mưu “vồ lấy” lật đổ thuyền.
Những tính cách của tảng đá vô tri cũng được tác giả phác họa lên vô cùng rõ nét “mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này”. Nguyễn Tuân đã sử dụng những phẩm chất, tính từ để miêu tả ngoại hình, tính cách cho con người áp dụng vào cho những hòn đá nơi đây. Mỗi một sự góp mặt của tảng đá trên sông Đà này đều mang trên mình một sứ mệnh riêng “trông tưởng như nó đứng nó ngồi nó nằm tùy theo sở thích tự động của đá to đá bé. Nhưng hình như sông Đà đã bàn giao việc cho mỗi hòn”.
Qua sự miêu tả của Nguyễn Tuân ta cảm nhận được sự hoang dại, hung bảo của những tảng đá. Trùng vi thạch trận của những phiến đá bày ra khiến ai đi qua đây đều cũng cảm thấy rợn người, khiếp sợ. Miêu tả đá mà Nguyễn Tuân dùng những từ ngữ như “hai đứa” làm người ta liên tưởng đến một đội quân đang bày binh bố trận chuẩn bị một cuộc chiến sinh tử.
Hưởng ứng với trùng vi thạch trận đá, “mặt trước hò la vang dậy quanh mình” chỉ cần tay lái yếu là bỏ mạng. Sự hung tợn của trận địa đá ở sông Đà đến ông lái đò vốn đã nhiều năm kinh nghiệm cũng phải gồng mình mới vượt qua được. Ấy thế như ma trận của dòng sông đó chỉ có một vòng vây “nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh. Cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông”. Nguyễn Tuân được miêu tả việc vượt qua thác như cưỡi một con hổ. Chỉ cần “nắm chặt lấy cái bờm sóng đúng luồng rồi, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh”. Đó phải là ông lái đò đã sinh sống nơi đây nhiều năm, dày dạn kinh nghiệm lắm mới có thể đánh bại được trận địa mà sông Đà tạo ra.
Dường như sông Đà đoạn thượng nguồn ấy lúc nào cũng chừng chực cướp mạng sống của bất cứ người lái đò nào đi ngang qua đây. Ngay cả khi gần đến cửa sinh “bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liên xô ra cảnh níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử”. Nguyễn Tuân đã thể hiện sự tài hoa đầy tinh tế của mình khi miêu tả rõ nét những hình thù của bãi đá sông Đà “tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng thua cái thuyền đã đánh trúng vào cửa sinh nó trấn lấy”.
Vẻ đẹp hung bạo của con sông Đà có lẽ sẽ còn mãi trường tồn với thời gian. Dù đôi lúc nó cuồng nộ, giận dữ như những con thủy quái, nó mang lại cho người ta cảm giác ghê rợn. Nhưng đó là một vẻ đẹp cực kỳ tự hào đầy kiêu hãnh. Và ta cũng phải khẳng định rằng chỉ có qua ngòi bút đầy tài hoa và tinh tế của Nguyễn Tuân mà những hình ảnh kiêu sa, hùng vĩ của sông Đà mới được lột tả hết.
Bằng góc nhìn chân thực, khách quan, Nguyễn Tuân đã phần nào thể hiện cho người đọc tưởng tượng dược sự cuốn hút của con sông Đà. Đọc những dòng tùy bút của tác giả về sông Đà giống như ta đang trải nghiệm trực tiếp hoàn cảnh đó, cảm nhận được sự hung bạo của sông Đà đến đáng sợ. Chính sự hung bạo, tàn nhẫn đó mà sông Đà đã để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc. Có lẽ Nguyễn Tuân thực sự đã tìm được thứ “vàng mười” mà ông ngày đêm đang theo đuổi.
Xem thêm :
Mẫu 3 :
Kho tàng văn học Việt Nam đã ghi dấu và vang danh bao nhà văn, nhà thơ tài năng. Một trong số đó phải kể đến Nguyễn Tuân – một cây bút tài hoa với những sáng tác nổi bật. Ông được coi là một trong những nhà văn thành công nhất ở mảng tùy bút. Tiêu biểu trong những sáng tác của ông phải kể đến là tùy bút Người lái đò Sông Đà. Con sông Đà hiện lên với vẻ đẹp hung bạo, dữ dội gây ấn tượng sâu sắc với bạn đọc.
Dữ dội của sông Đà không phải chỉ có thác đá mà nó còn là cảnh đá bờ sông dựng vách thành hiềm trở, có vách đá chẹt dòng sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bên bờ này sang bên kia. Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Tác giả sử dụng nhiều giác quan (thị giác, xúc giác) để cảm nhận quãng sông này. Không chỉ mặt nước mà cảnh vật cũng vô cùng hiểm trở, sẵn sàng lấy đi tính mạng của người khác.
“Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà… Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra”. Sự nguy hiểm của sông Đà dài hàng cây số tít tắt cuồn cuộn, có thể đánh gục cả con thuyền và người lái đò. Nguyễn Tuân đã sử dụng nhiều câu văn ngắn, điệp từ, điệp cấu trúc gợi lên nhịp chuyển động gấp gáp của sóng gió đang phối hợp với nhau, tạo thêm nét hung bạo của sông Đà.
Đoạn tà Mường Vát trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống dòng sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cái cửa cống bị sặc… những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Nhiều thuyền bè gỗ đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút nước ấy nó lôi tụt xuống. Nhiều biện pháp so sánh, liên tưởng, nhân hóa độc đáo được tác giả sử dụng để gợi lên cảm giác về những mối nguy hiểm của sông Đà.
Có thể thấy, vẻ hung bạo, dữ tợn này khiến cho người khác phải e sợ nhưng nó lại là một nét nổi bật làm cho người ta nhớ đến sông Đà hơn bất kì thứ gì hết. Nhiều năm tháng qua đi nhưng vẻ đẹp hung bạo, dữ tợn của dòng sông Đà dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân cũng như vẻ đẹp của sông Đà nói chung vẫn còn nguyên vẹn và sống mãi trong lòng bạn đọc với một dấu ấn riêng biệt không gì sánh bằng.
Mẫu 4 :
Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn tài hoa, độc đáo, Nguyễn Tuân thích miêu tả những cái gì dữ dội, thật mãnh liệt hoặc đẹp một cách rất tuyệt đỉnh. Những trang viết hay nhất của ông thường chính là những trang tả đèo cao, vực sâu, thác nước. tác giả Nguyễn Tuân yêu thiên nhiên tha thiết, ông có nhiều phát hiện tinh tế về vẻ đẹp của núi sông, với cỏ cây trên đất nước mình. Bút kí “Người lái đò sông Đà” đã thể hiện sự đậm nét phong cách Nguyễn Tuân. Cảm hứng về dòng sông Đà “hung bạo và trữ tình” đã chảy trên trang văn của Nguyễn Tuân biến vùng sông nước ấy thành một hình tượng với sự nghệ thuật đặc sắc.
“Người lái đò sông Đà” rút từ tập tùy bút “Sông Đà” của nhà văn Nguyễn Tuân. Tác phẩm là kết quả của nhiều dịp ông đến với sự Tây Bắc trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, đặc biệt chính là kết quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc vào năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng khác nhau, nhịp sống với bộ đội, thanh niên xung phong, công nhân cầu đường và cả những người đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới cũng đã đem lại cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo. Đến với những tác phẩm của Nguyễn Tuân chính là ta đang đến với một tâm hồn vô cùng phong phú, với những phát hiện hết sức là tinh tế, độc đáo về quê hương. Nguyễn Tuân là một nhà văn yêu nước, luôn giàu lòng tự hào dân tộc. Tình yêu nước ấy cũng chính là những tình yêu thiên nhiên tha thiết. Khám phá về sông Đà – dòng chảy dữ dội của khi núi rừng Tây Bắc là một thành công đặc sắc của ông. Chỉ có Nguyễn Tuân mới không có nhọc công dò đến ngọn nguồn lạch sông, truy tìm đến tận nơi gốc tích khi đã khai sinh ra sông Đà, để biết chỗ phát nguyên của chính nó thuộc huyện Cảnh Đông và thoạt kỳ thủy, dòng sông mang những cái tên Trung Hoa khá thơ mộng: Ly Tiên, Bả Biên Giang. Cũng chưa có nhà văn nào trước Nguyễn Tuân có thể kể nhiều tên vanh vách 50/73 con thác lớn nhỏ nằm lô nhô suốt một dải sông từ Lai Châu và về đến chợ Bờ. Cũng không có ai như Nguyễn, để có thể hạ bút viết đúng ba câu về màu sắc nước sông Đà đã phải có mấy lần bay ngang qua những miền sông ấy. Dòng sông Đà trong cảm nhận của nhà văn có hai nét tính cách đối lập đó là: hung bạo và trữ tình.
Nguyễn Tuân miêu tả con sông Đà ở khi những trạng thái đối lập nhau. Trước tiên, con sông hiện lên với một trong những vẻ ngoài hung bạo. Vách đá “đá bờ sông dựng vách thành” và khi những bức thành vách đá cao chẹt chặt lấy lòng sông hẹp. Cái hẹp của lòng sông tác giả đã tả theo đủ cách: “Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”, con hổ con nai cũng có thể vọt qua sông, và chỉ cần nhẹ tay thôi cũng có thể ném hòn đá từ bờ bên này qua đến bên kia vách. “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè cũng cảm thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một trong những cái khung cửa sổ nào trên các tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Sự so sánh vừa chính xác, tinh tế, đã vừa bất ngờ và lạ lùng. Cảm giác như Nguyễn Tuân luôn luôn lục lọi đến tận kiệt cùng cái kho ấn tượng nay ăm ắp để tìm cho được khi một cách nói có thể làm kinh động hồn trí con người.
Gió trên sông Đà: “Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn và luồng gió gùn ghè suốt năm …” Với lối viết tài hoa, những câu văn đã diễn đạt theo kiểu móc xích, cấu trúc câu trùng điệp, với gợi hình ảnh con sông Đà cuồng nộ, dữ dằn như lúc nào cũng muốn tiêu diệt hết con người. Những hút nước ở những quãng Tà Mường Vát: “nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, “chỗ giếng nước sâu ặc ặc lên …” với những cái hút nước lôi tuột bè gỗ xuống hoặc cùng hút những chiếc thuyền xuống rồi cùng đánh chung tan xác” -> Lối so sánh độc đáo khiến con sông Đà không khác gì những loài thủy quái với những tiếng kêu ghê rợn như muốn khủng bố tinh thần và cực kì uy hiếp con người.
Âm thanh thác nước sông Đà: tác giả Nguyễn Tuân như một nhạc trưởng đang điều khiển một dàn giao hưởng chơi thật hùng tráng với bài ca của gió thác xô sóng đá Ban đầu tác giả mới để cất lên những khúc như đang “oán trách”, “van xin”, “khiêu khích” và “giọng gằn mà chế nhạo”. Thế rồi bất ngờ âm thanh được phóng to hết cỡ, khi các nhạc khí bừng bừng thét lên khúc nhạc của cả một thiên nhiên đang ở đỉnh điểm của một trong những cơn phấn khích mạnh mẽ và man dại: “nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa cánh rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa … rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy sáng bùng bùng…” -> Sự liên tưởng vô cùng phong phú, với âm thanh của thác nước sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả không khác gì âm thanh của một nhiều trận động rừng, động đất hay nạn núi lửa thời tiền sử. Lấy lửa để tả nước, và lấy rừng để tả sông, Nguyễn Tuân quả là đã chơi ngông trong nghệ thuật.
Bằng thủ pháp nhân hóa, nhiều người đọc nhận ra từng sắc diện người trong những hình thù đá vô tri. Nguyễn Tuân cũng đã dùng sức mạnh điêu khắc của ngôn từ để thổi hồn vào từng thớ đá: “Cả một chân trời đá … mặt hòn nào trông cũng “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm” và “méo mó” -> Những hòn đá vô tri vô giác nhưng qua cái nhìn của tác giả Nguyễn Tuân chúng mang vẻ du côn của thiên nhiên hoang dại và hung dữ với khi ba trùng vi thạch trận. Trùng vi thạch trận thứ I: Bọn đá đứa thì đã “hất hàm” đứa thì “thách thức”, “mặt nước hò la ùa vào để bẻ gãy cán chèo”, sóng nước “đá trái, thúc gối vào bụng vào bên hông thuyền”….Trùng vi thạch trận thứ II: Sông nước bài binh bố trận ở khắp mọi nơi, tăng nhiều cửa tử, nơi cửa sinh nằm ở phía hữu ngạn… Trùng vi thạch trận thứ III: Khi Sông Đà sắp đặt bên phải bên trái đều là luồng chết, luồng sống ở giữa.
Con sông Đà hiện lên rất hung bạo, tàn ác không khác gì “kẻ thù số một của con người”. Nhưng cũng chính từ hình ảnh của con sông ấy lại là kẻ tôn vinh tài năng nghệ thuật tài hoa, sự tài tử và cực kì uyên bác của một ngòi bút số một về thể loại tùy bút của nền văn học Việt Nam.
Nhưng sông Đà không chỉ đã hiện lên trông hung bạo như vậy vì có lúc nó cũng dịu dàng mang trong mình vẻ đẹp đến trữ tình. Dòng sông Đà không chỉ có những “dòng thác hùm beo đang hồng hộc và tế mạnh trên sông đá” mà nó còn là bức tranh thủy mặc cho vương vấn lòng người. Từ trên tàu bay nhìn xuống khi “con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, với chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban và hoa gạo …”
Màu sắc dòng sông thay đổi theo nhiều mùa “Mùa xuân xanh màu ngọc bích”, khác với sông Gâm, dòng sông Lô “màu xanh canh hến”. Mùa thu nước sông “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người đã bầm đi vì rượu bữa …” -> Sông Đà mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng, sự quyến rũ và tình tứ.
Đến với sông Đà, hăm hở, sự say mê đến nỗi tác giả như thấy mình như đang “sắp đổ ra sông Đà”. Nguyễn Tuân nhìn sông Đà cũng như một cố nhân với những cảnh quan hai bên bờ cực kỳ gợi cảm: lá non nhú trên những nương ngô, như những con hươu “ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương” … Dòng sông Đà cũng như gợi những nỗi niềm sâu thẳm trong lịch sử đất Việt là: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa… sự lặng tờ “như từ Lí, đời Trần, đời Lê”.
Nguyễn Tuân thật say mê đã miêu tả dòng sông với tất cả sự tinh tế của cảm xúc, và bằng một tình yêu thiết tha thiên nhiên của đất nước. Lòng ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu tự hào về một dòng sông, với một ngọn thác, một dòng chảy đã tạo nên những trang văn đẹp hiếm có tác giả Nguyễn Tuân xứng đáng là một cây bút tài hoa bậc nhất của nền văn học của Việt Nam.
Phong cách Nguyễn Tuân độc đáo và phong phú khi ở tùy bút “Người lái đò sông Đà” chúng ta thấy phong cách giá trị của chính ông đã thể hiện rõ nhất là sự nhọn sắc của giác quan nghệ sĩ đi đôi với cả một kho chữ nghĩa giàu có và đầy đủ màu sắc, lối văn rất mực tài hoa. Dòng sông Đà “hung bạo và trữ tình” chảy mãi trong khi dòng văn học nước nhà như cả niềm yêu mến và tự hào về cỏ cây sông núi quê hương của tác giả Nguyễn Tuân.
Mẫu 5 :
“Người lái đò sông Đà” – một thiên tùy bút của Nguyễn Tuân viết về sông Đà và người lao động bình dị mang trong mình “chất vàng mười”, ta nhận ra Nguyễn Tuân không chỉ muốn xê dịch để khuây khỏa cảm giác “vắng quê hương” mà đã có khao khát được hòa mình với đất nước và cuộc đời. Nguyễn Tuân bằng tình yêu và sự tài hoa, uyên bác của mình không chỉ phát hiện ra tính chất hung bạo của dòng sông khi ở thượng nguồn mà còn làm nổi bật tài trí, sức mạnh của người lái đò – người làm chủ thiên nhiên nơi đây.
Trong tác phẩm của mình, Nguyễn Tuân đã khắc họa rõ nét “hung bạo” ở thượng nguồn con sông Đà đầy đá nổi, đá chìm và thác dữ. Tuy nhiên, ông vẫn làm cho chúng ta nhận thấy một điều rằng: bên trong sự hung bạo ấy còn là vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên đất nước.
Sông Đà dữ dội và hung bạo trước hết ở cảnh hai bên bờ có những “vách đá dựng đứng” làm cho lòng sông hẹp hẳn đi, khoảng cách giữa hai bờ bị thu nhỏ lại và lòng sông chỗ ấy phải lúc đúng giờ ngọ mới có mặt trời, hẳn là một nơi thiếu ánh sáng. Đi đò qua quãng ấy đang là mùa hè cũng cảm thấy ớn lạnh cho thấy nơi ấy thiếu cả hơi ấm, lòng sông chỗ ấy như chảy trong hang đá. Sông Đà hung bạo còn ở cảnh mặt ghềnh Hát Loóng “Dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm”. Mặt ghềnh được tạo bởi đá ngầm suốt chiều dài hàng cây số, nước – đá – sóng – gió cứ xô lẫn nhau. Nhà văn sử dụng câu văn có cấu trúc trùng điệp để mô tả cảnh mặt ghềnh với dòng nước dữ tợn xô vào đá ầm ào suốt đêm ngày. Hình ảnh “cái hút nước” đã tô đậm tính hung bạo của con sông, bằng cách miêu tả sự nguy hiểm của hút nước sông Đà ở cả bề mặt và bề sâu.
Bề mặt hút nước sông Đà nhà văn đã dùng những hình ảnh so sánh, ví “cái hút nước” như cái giếng bê tông sâu thẳm thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu và “nước thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”. Với những hình ảnh so sánh đó ta hình dung bề mặt hút nước rất rộng, lưu lượng nước và sức hút là rất lớn, bất cứ con thuyền nào vô ý nghênh ngang , sơ hở đi qua đó không biết lướt qua cho nhanh thì sẽ bị cái hút nước lôi tuột xuống và làm cho tan xác ngay lập tức.
Ở bề sâu, tác giả đã sử dụng kiến thức ở lĩnh vực điện ảnh, nhà văn mượn cảm giác của một nhà quay phim táo tợn vì muốn truyền cảm giác mạnh cho người xem nên đã dũng cảm cầm máy quay ngồi vào cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền, cả người, cả máy xuống đáy cái hút nước sông Đà, rồi từ đáy cái hút nước nhà quay phim mới lia ngược cái ống kính lên để thu hình. Lúc này chiếc thuyền bị hút nước làm cho xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít, nhà quay phim đã truyền cảm giác mạnh ấy cho người xem khiến người xem ngỡ rằng chính bản thân mình đang ở đáy hút nước sông Đà, đang bị cuốn vào vòng xoáy tít của dòng nước mà hoảng sợ tới mức chỉ còn biết giữ chặt lấy mép ghế mà phó mặc cho số phận mình cho dòng nước xoáy.
Để tô đậm biểu hiện hung bạo của sông Đà ở tiếng thác nước, nhà văn đã dùng cả cách nói nhân hóa và cách nói so sánh. Câu văn nhân hóa “Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”. Ở đây nhà văn đã gắn cho sông Đà những trạng thái bất thường, “oán trách” là sự hờn giận, trách cứ đầy ai oán, “van xin” là thái độ năn nỉ, cầu xin một cách tha thiết như kẻ có lỗi, “khiêu khích” và “chế nhạo” lại là sự thách thức đầy nhạo báng. Những trạng thái rất thất thường hay chính là tô đậm những diễn biến khó lường của thiên nhiên bí ẩn. Nhà văn so sánh tiếng thác như “tiếng rống của một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa”, đang phá tung rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Nhà văn muốn mượn tính chất của một mớ âm thanh hỗn độn để miêu tả độ mạnh của tiếng thác nước sông Đà, âm thanh ấy như tiếng gầm thét của tự nhiên hoang dại.
Như vậy qua câu văn nhân hóa và câu văn so sánh, nhà văn muốn tô đậm hình ảnh một con sông không chỉ có tâm trạng mà còn có cả tính cách dữ dằn, ở đó tiềm ẩn những diễn biến khó lường của thiên nhiên hoang dã. Tiêu biểu nhất cho tính hung bạo của sông đà chính là dàn thạch trận trên sông. Ở đây nhà văn kết hợp giữa những câu văn nhân hóa với những kiến thức quân sự, thể thao để làm rõ âm mưu, tâm địa của con sông khi nó chủ động bày binh bố trận để tiêu diệt con người. Nguyễn Tuân cho rằng, đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, “mai phục” là chủ động ẩn nấp để đón đánh đối phương và mỗi khi thoáng nhìn thấy đối thủ, đá trên sông Đà đã nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền, tô đậm tính hiếu chiến của sông Đà.
Ngoài ra giàn thạch trận trên sông, mỗi dàn lại có nhiệm vụ khác nhau: hàng tiền vệ có nhiệm vụ canh cửa giả là sơ hở để dụ dỗ đối phương, hàng trung vệ có nhiệm vụ đánh khuýp quật vu hồi – nghĩa là đánh bất thần trở lại khiến đối phương không kịp trở tay, tuyến trong cùng sông Đà giao nhiệm vụ cho boong – ke chìm và pháo đài đá nổ phải tấn công tới tấp đối phương và tiêu diệt triệt để. Ta thấy sông Đà chủ động bày binh bố trận rất kĩ càng, có âm mưu tiêu diệt đối phương bằng một chiến lược, chiến thuật cụ thể. Con sông Đà không chỉ có tính cách, tâm trạng mà còn có âm mưu và tâm địa xấu xa, nó trở thành một loài thủy quái và là kẻ thù số một của con người.
Có thể nói, hình tượng sông Đà nói chung và tính hung bạo của con sông ở thượng nguồn nói riêng đã bộc lộ vẻ đẹp, “cá tính” của dòng sông Đà và sự tài hoa, uyên bác, sử dụng nhiều kiến thức ngành nghề của nhà văn Nguyễn Tuân. Qua việc phân tích hình tượng con sông Đà, ta cảm nhận được niềm tin yêu, gắn bó và tự hào của người nghệ sĩ với cuộc sống cùng tình yêu quê hương đất nước bằng việc phát hiện và ca ngợi vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc.